Nợ xấu là gì? Các công bố khoa học về Nợ xấu

Nợ xấu là khoản nợ mà người vay không thể trả đúng hạn, không đáng tin cậy và có khả năng không trả được toàn bộ hoặc một phần số tiền mà mình đã vay. Nợ xấu th...

Nợ xấu là khoản nợ mà người vay không thể trả đúng hạn, không đáng tin cậy và có khả năng không trả được toàn bộ hoặc một phần số tiền mà mình đã vay. Nợ xấu thường đã trở thành một tình huống rủi ro cao đối với ngân hàng hoặc tổ chức tài chính. Việc có nhiều nợ xấu có thể tác động tiêu cực đến khả năng tài chính và hoạt động của người vay và có thể dẫn đến tình trạng phá sản hoặc giảm giá trị tài sản.
Nợ xấu chủ yếu xuất hiện khi người vay không trả nợ đúng hạn hoặc không trả nợ một phần hoặc toàn bộ số tiền mà mình đã vay. Nguyên nhân dẫn đến nợ xấu có thể bao gồm mất việc, suy thoái kinh tế, trục lợi từ việc vay tiền không có kế hoạch trả nợ, hay cơ cấu tài chính không hợp lý.

Các tổ chức tài chính, ví dụ như ngân hàng, thường sẽ gánh chịu rủi ro về nợ xấu. Khi có nhiều nợ xấu, tổ chức tài chính sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi số tiền vay cũng như ảnh hưởng đến lợi nhuận và sự ổn định của họ. Do đó, tránh nợ xấu là điều rất quan trọng trong việc quản lý rủi ro tín dụng của các tổ chức tài chính.

Người vay cũng gánh chịu hậu quả của nợ xấu. Nếu không thể trả nợ, họ có thể bị tịch thu tài sản, bị kiện tụng hoặc bị xử lý theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, nợ xấu có thể gây tổn thương đến uy tín và khả năng vay tiền của người vay trong tương lai.

Để tránh nợ xấu, người vay cần có kế hoạch tài chính hợp lý, đảm bảo rằng mình có khả năng trả nợ đúng hạn và chỉ vay số tiền mà mình có khả năng trả. Các tổ chức tài chính cũng cần áp dụng biện pháp kiểm soát rủi ro nghiêm ngặt, như kiểm tra tín dụng trước khi cho vay và đưa ra các biện pháp cần thiết để thu hồi nợ đối với người vay không đáng tin cậy.
Nợ xấu có thể được phân loại thành hai loại chính: nợ xấu theo quy định và nợ xấu theo giai đoạn.

1. Nợ xấu theo quy định: Đây là các khoản nợ mà người vay không thể trả đúng hạn theo các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng vay. Điều này có thể xảy ra khi khách hàng không có khả năng tài chính để trả nợ, làm việc không đủ để kiếm được thu nhập đủ để trả nợ, hoặc bị mất việc. Tình trạng nợ xấu theo quy định có thể cảnh báo cho ngân hàng hoặc tổ chức tài chính về khả năng của người vay trong việc trả nợ và rủi ro cố tình không trả nợ.

2. Nợ xấu theo giai đoạn: Đây là quá trình phát triển của một khoản nợ từ khi bắt đầu có dấu hiệu không trả nợ đến khi trở thành một khoản nợ xấu hoàn toàn không thể đòi được. Giai đoạn này thường được chia thành ba giai đoạn chính:

a. Giai đoạn tiềm ẩn: Đây là giai đoạn ban đầu khi người vay bắt đầu có khó khăn trong việc trả nợ. Có thể có các dấu hiệu như trễ hạn trong thanh toán, không đáp ứng được các nghĩa vụ tài chính, hoặc không thực hiện các điều khoản thỏa thuận trong hợp đồng vay.

b. Giai đoạn quá trình: Đây là giai đoạn khi người vay đã không thể trả nợ đúng hạn và có khả năng không trả nợ toàn bộ. Trong giai đoạn này, người vay có thể được yêu cầu cung cấp thông tin bổ sung và tìm kiếm các biện pháp giải quyết nợ, như tái cơ cấu nợ, hoãn trả nợ hoặc tiến hành đàm phán với ngân hàng hoặc tổ chức tài chính.

c. Giai đoạn không thể đòi được: Đây là giai đoạn cuối cùng khi người vay không có khả năng trả nợ và không có khả năng giải quyết nợ theo bất kỳ cách nào. Trong giai đoạn này, tổ chức tín dụng có thể thực hiện các biện pháp pháp lý như tịch thu tài sản, kiện tụng hoặc chuyển nợ cho công ty thu nợ.

Trong việc quản lý nợ xấu, các tổ chức tài chính áp dụng các biện pháp như theo dõi chặt chẽ tình hình tài chính của khách hàng, đánh giá rủi ro tín dụng, và áp dụng các biện pháp can thiệp sớm nhằm giảm thiểu các khoản nợ trở thành nợ xấu. Đối với người vay, việc quản lý tài chính hiệu quả, giảm thiểu đòi hỏi về nợ vay không cần thiết và duy trì một hồ sơ tín dụng tốt có thể giúp tránh nợ xấu.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nợ xấu":

Cấy ghép dị chủng với chế độ điều kiện cường độ giảm có thể khắc phục tiên lượng xấu của bệnh bạch cầu lympho mãn tính tế bào B với gen chuỗi nặng biến đổi kháng thể không được chuyển đổi và các bất thường nhiễm sắc thể (11q− và 17p−) Dịch bởi AI
Clinical Cancer Research - Tập 11 Số 21 - Trang 7757-7763 - 2005
Tóm tắt

Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của cấy ghép dị chủng với điều kiện cường độ giảm (RIC) ở 30 bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu lympho mãn tính (CLL) tiên lượng xấu và/hoặc các đặc điểm phân tử/cytogenetic có nguy cơ cao.

Thiết kế Nghiên cứu: 83% bệnh nhân có bệnh chủ động tại thời điểm cấy ghép, cụ thể là 14 trong số 23 bệnh nhân được phân tích (60%) có trạng thái gen chuỗi nặng biến đổi kháng thể không được chuyển đổi (IgVH); 8 trong số 25 bệnh nhân (32%) có 11q−, với bốn trong số họ cũng hiển thị IgVH không được chuyển đổi; và sáu (24%) có 17p− (năm cũng không được chuyển đổi).

Kết quả: Sau khi theo dõi trung bình 47,3 tháng, tất cả 22 bệnh nhân còn sống đều không mắc bệnh; tỷ lệ sống sót toàn bộ và không biến cố (EFS) trong 6 năm là 70% và 72%, đánh giá ngược lại. Theo đặc điểm phân tử/cytogenetic, tỷ lệ sống sót và EFS cho CLL không được chuyển đổi và/hoặc với bất thường 11q− (n = 13) là 90% và 92%, không khác biệt đáng kể so với những người có thể kết hợp bình thường tại chỗ, 13q− và +12, hoặc thêm CLL (n = 7). Tất cả sáu bệnh nhân bị mất đoạn 17p đã được cấy ghép với bệnh hoạt động, bao gồm ba người với bệnh kháng. Tất cả trừ một trong số họ đã đạt được hoàn toàn lui bệnh sau khi cấy ghép và hai trong đó còn sống và không mắc bệnh. Tỷ lệ tử vong không do tái phát (NRM) là 20%; hơn hai dòng trước khi cấy ghép là một yếu tố tiên lượng độc lập cho NRM (P = 0,02), EFS (P = 0.02), và tỷ lệ sống sót toàn bộ (P = 0.01). Bệnh nhân trên 55 tuổi có nguy cơ NRM cao hơn (tỷ số nguy cơ, 12.8; khoảng tin cậy 95%, 1.5-111). Bệnh tồn dư tối thiểu được theo dõi bằng phương pháp dòng chảy đa tham số trong 21 bệnh nhân. Loại bỏ tế bào CD79/CD5/CD19/CD23 trong tủy xương đạt được tại 68% và 94% bệnh nhân vào ngày 100 và ngày 360, tương ứng.

Kết luận: Theo kết quả này, cấy ghép dị chủng với RIC có thể khắc phục tiên lượng bất lợi của bệnh nhân với CLL không được chuyển đổi cũng như những người có 11q− hoặc 17p−.

#Cấy ghép dị chủng #Điều kiện cường độ giảm #Bệnh bạch cầu lympho mãn tính #Gen biến đổi chuỗi nặng kháng thể không được chuyển đổi #Bất thường nhiễm sắc thể
Tính đồng nhất của hai loài tảo đỏ hóa thạch có hình thái khác nhau từ khu vực tây bắc Thái Bình Dương: Galaxaura pacifica và G. filamentosa (Galaxauraceae, Rhodophyta) Dịch bởi AI
Botanical Studies - - 2013
Tóm tắt Nền tảng

Các thành viên của chi tảo đỏ hóa thạch Galaxaura chủ yếu phân bố ở các khu vực ấm, ôn đới, cận nhiệt đới và nhiệt đới trên toàn cầu. Khả năng hình thành thallus hóa thạch của các loài tảo này có thể đóng vai trò quan trọng trong chu trình carbon của hệ sinh thái. Các nghiên cứu trước đây đã gợi ý rằng sự đa dạng loài được báo cáo của Galaxaura có thể bị phex đại do thiếu kiến thức về sự khác biệt hình thái bên ngoài giữa các thực vật giao tử và tetrasporophyte (hoặc giữa các giai đoạn khác nhau của một loài duy nhất).

Kết quả

Để xem xét vấn đề này, nghiên cứu đã thu thập các mẫu tảo Galaxaura có hình thái khác nhau từ Đài Loan và Philippines. Các mẫu này ban đầu được xác định là hai loài (G. pacifica Tanaka và G. filamentosa Chou ex Taylor) dựa trên các đặc điểm hình thái của chúng. Tuy nhiên, phân tích phân tử của chúng tôi bất ngờ chỉ ra rằng hai mẫu này có cùng 100% chuỗi rbc L, cho thấy chúng đại diện cho một loài duy nhất với hai hình thái bên ngoài khác nhau. Hơn nữa, quan sát và phân tích phân tử rộng rãi của chúng tôi trên một số mẫu từ các địa điểm khác nhau ở miền nam Đài Loan đã tiết lộ rằng những khác biệt hình thái này có thể do biến động theo mùa.

#Galaxaura #tảo đỏ #đồng nhất #hình thái #phân tích phân tử #đa dạng sinh học
Synthèse et réactivité d'un nouvel hydrure organostannique à “queue polaire”: le dibutyl-4,7,10-trioxaundécylstannane
Journal of Organometallic Chemistry - Tập 420 Số 3 - Trang 315-320 - 1991
Giá trị tiên lượng của thang điểm wfns đối với kết quả xấu sau chảy máu dưới nhện do phình động mạch não
Nghiên cứu nhằm xác định mối quan hệ giữa hai thang điểm Hiệp hội Phẫu thuật Thần kinh Thế giới (WFNS) và Hunt - Hess (H&H) với kết quả thực tế và so sánh độ chính xác trong tiên lượng của hai thang điểm này. Chúng tôi trích xuất dữ liệu bệnh nhân chảy máu dưới nhện do vỡ phình động mạch não điều trị tại ba bệnh viện trung ương ở Hà Nội, Việt Nam từ 8/2019 đến 8/2020. Sử dụng phân tích hồi quy logistic đơn biến, chúng tôi tính tỷ suất chênh (OR) với khoảng tin cậy (CI) 95% tương ứng đối với kết quả chức năng thần kinh xấu thời điểm 90 ngày cho mỗi mức độ nặng so sánh với mức độ nhẹ nhất của hai thang điểm. Diện tích dưới đường cong ROC cũng được tính toán. Chúng tôi đã tuyển chọn 168 bệnh nhân (≥ 18 tuổi). Đối với thang điểm WFNS, OR dao động từ 2,15 (95% CI: 0,50 - 9,20) tới 37,44 (95% CI: 9,53 - 163,25) và tăng không đều hơn so với thang điểm H&H (OR dao động từ 0,85 (95% CI: 0,23 - 3,19) tới 30,11 (95% CI: 8,66 - 104,75)). Diện tích dưới đường cong của thang điểm WFNS và H&H lần lượt là 0,81 (95% CI: 0.73 - 0,88) và 0,81 (95% CI: 0,74 - 0,89). Cả hai thang điểm WFNS và H&H đều có độ chính xác cao trong dự báo kết quả chức năng thần kinh. Bởi vì OR của thang điểm WFNS tăng không đều hơn cho nên nó không ưu thế hơn thang điểm H&H trong tiên lượng bệnh nhân.
#Chảy máu dưới nhện #Chảy máu não thất #Chảy máu não #Đột quỵ #Thang phân loại Hunt-Hess #Thang phân loại WFNS
NGHIÊN CỨU GIÁ TRỊ TIÊN LƯỢNG CỦA THANG ĐIỂM PAASH VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ LIÊN QUAN TỚI KẾT CỤC CHỨC NĂNG THẦN KINH XẤU Ở BỆNH NHÂN CHẢY MÁU DƯỚI NHỆN DO VỠ PHÌNH ĐỘNG MẠCH NÃO
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 498 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Phân tích mối liên quan giữa thang điểm PAASH và kết cục chức năng thần kinh (theo thang điểm Rankin sửa đổi và một số yếu tố liên quan tới kết cục chức năng thần kinh bất lợi) tại thời điểm 1 tháng ở bệnh nhân chảy máu dưới nhện do vỡ phình mạch não. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu 71 bệnh nhân được chẩn đoán xuất huyết dưới nhện do vỡ phình động mạch não được điều trị tại Bệnh viện Việt Đức từ tháng 8 năm 2019 tới tháng 8 năm 2020. Kết quả: PAASHscore có mối liên quan đồng biến với mRS=4-6 tại thời điểm 1 tháng với OR=4,423 (CI 95%: 2,378-4,927) có ý nghĩa thống kê với p<0,001, OR tăng dần từ 2,24 đến 52,0 ở mức độ nặng theo PAASH từ mức II đến IV với p<0,005; AUROC= 0,829 giữa PAASHscore với mRS=4-6, điểm cut-off PAASHscore = 2,5 có độ nhạy 72,9% và độ đặc hiệu 86,6%; WFNSscore có mối liên quan đồng biến với mRS=4-6 tại thời điểm 1 tháng với OR=2,47 (CI 95%: 1,899-3,231) có ý nghĩa thống kê với p<0,001, ở độ IV và V theo WFNSscore cho OR=12,256 và 71,0 (p<0,001); AUROC=0,821 giữa WFNSscore và mRS=4-6, điểm cut-off WFNSscore = 3,5 có độ nhạy 78% và độ đặc hiệu 79,5%. Kết luận: thang điểm PAASH có giá trị tốt trong việc dự đoán kết cục chức năng tại thời điểm 1 tháng sau khởi phát của bệnh nhân xuất huyết dưới nhện do vỡ phình mạch não và có giá trị tương đương với thang điểm WFNS.
Các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
Nghiên cứu phân tích số liệu của 23 ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam từ năm 2009 – 2017, để kiểm định tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại cổ phần. Sử dụng phương pháp hồi quy tác động cố định (FE) và tác động ngẫu nhiên (RE). Nghiên cứu thấy rằng tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng ở năm trước càng cao sẽ làm cho tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng hiện tại càng gia tăng. Đồng thời, ngân hàng có chi phí trích lập dự phòng càng cao thì nợ xấu càng cao. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số ý kiến nhằm cải thiện tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại cổ phần.
#Đặc điểm ngân hàng #kinh tế vĩ mô #nợ xấu #phương pháp FE và RE
Các yếu tố kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến nợ xấu của ngân hàng các nước khu vực Châu Á Thái Bình Dương
Bài nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu, xác định các yếu tố kinh tế vĩ mô như: (1) tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP), (2) tỷ lệ lạm phát (INF), (3) lãi suất (IR), (4) chỉ số phát triển công nghiệp (IPI), (5) tỷ lệ thất nghiệp (UN), (6) lượng cung tiền (V2), chỉ số giá tiêu dùng (CPI) có ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ xấu (NPL) trong khu vực ngân hàng của 13 nước khu vực Châu Á Thái Bình Dương được công bố trên Wordbank trong khoảng thời gian 10 năm. Kết quả nghiên cứu tìm thấy, có 2 mối quan hệ ngược chiều giữa GDP và IPI có ảnh hưởng đến NPL và có 2 mối quan hệ cùng chiều có ảnh hưởng đến NLP. Từ kết quả này có thể rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô nhằm giảm tỷ lệ nợ xấu (NPL) tại khu vực ngân hàng Việt Nam trong thời kỳ cách mạng công nghệ 4.0. Nghiên cứu này cũng cung cấp thêm một bằng chứng thực nghiệm về các yếu tố kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng đến nợ xấu của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung.
#nợ xấu #yếu tố kinh tế vĩ mô #ngân hàng
Bildrauschen und Diagnose von Rundherden in Thoraxaufnahmen
Zeitschrift für Medizinische Physik - Tập 6 Số 2 - Trang 80-86 - 1996
Petrography, Sr-isotope geochemistry and geochronology of the Nxau Nxau kimberlites, north-west Botswana
Tschermaks mineralogische und petrographische Mitteilungen - Tập 112 - Trang 625-638 - 2018
The Nxau Nxau kimberlites in northwest Botswana belong to the Xaudum kimberlite province that also includes the Sikereti, Kaudom and Gura kimberlite clusters in north-east Namibia. The Nxau Nxau kimberlites lie on the southernmost extension of the Congo Craton, which incorporates part of the Damara Orogenic Belt on its margin. The Xaudum kimberlite province is geographically isolated from other known clusters but occurs within the limits of the NW-SE oriented, Karoo-aged Okavango Dyke Swarm and near NE-SW faults interpreted as the early stages of the East African Rift System. Petrographic, geochronological and isotopic studies were undertaken to characterise the nature of these kimberlites and the timing of their emplacement. The Nxau Nxau kimberlites exhibit groundmass textures, mineral phases and Sr-isotope compositions (87Sr/86Sri of 0.7036 ± 0.0002; 2σ) that are characteristic of archetypal (Group I) kimberlites. U-Pb perovskite, 40Ar/39Ar phlogopite and Rb-Sr phlogopite ages indicate that the kimberlites were emplaced in the Cretaceous, with perovskite from four samples yielding a preferred weighted average U-Pb age of 84 ± 4 Ma (2σ). This age is typical of many kimberlites in southern Africa, indicating that the Xaudum occurrences form part of this widespread Late Cretaceous kimberlite magmatic province. This time marks a significant period of tectonic stress reorganisation that could have provided the trigger for kimberlite magmatism. In this regard, the Nxau Nxau kimberlites may form part of a NE-SW oriented trend such as the Lucapa corridor, with implications for further undiscovered kimberlites along this corridor.
Tổng số: 35   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4